Vị A La Hán 7 Tuổi (Chú Tiểu Hiền Trí)
(Trích "Truyện cổ Phật
giáo")
Thuở Phật Ca
Diếp còn tại thế, Ngài có một tăng đoàn gồm 20.000 (hai
mươi ngàn) tỳ kheo đã diệt tận các lậu hoặc. Mỗi khi
du hóa một nơi nào, tất cả các Tỳ kheo ấy đều theo
Phật Ca Diếp, cũng như 1250 Tỳ kheo thường đi cùng
với Đức Bổn Sư Thích Ca vậy.
Một hôm, Phật
Ca Diếp và Tăng chúng của Ngài đi đến thành Ba La
Nại, dân chúng đua nhau đến đảnh lễ cúng dường và
nghe Ngài thuyết pháp. Sau khi thọ thực xong, Phật
nói lời tùy hỷ công đức như sau:
- “Này các cư
sĩ, trong thế gian có bốn hạng người. Thế nào là bốn?
Một
là những người tự mình làm phước bố thí, nhưng không
khuyến khích kẻ khác làm. Hạng người này, trong
tương lai được giàu có nhưng không được nhiều người
theo.
Hai
là những người khuyên kẻ khác bố thí, nhưng tự mình
không bố thí. Hạng người này đời sau có phước báo
được đông người theo, nhưng không có của cải.
Ba
là những người tự mình không bố thí cũng không
khuyên người bố thí. Hạng người này đời sau không có
của cải cũng không có người theo, phải sống cô độc,
ăn cơm thừa của kẻ khác.
Bốn
là hạng người vừa tự bố thí, vừa khuyên người bố thí,
hạng người này trong tương lai sẽ được cả hai phước
báo: giàu có và đông người theo”.
Khi nghe như
thế, có một người khởi lên ý nghĩ: “Ta cố làm sao để
được hai phước ấy”. Rồi vị ấy đến đảnh lễ Phật, bạch
rằng:
- Bạch Thế
Tôn, xin Ngài đến thọ thực làng con vào ngày mai, để
chúng con được phước cúng dường.
Phật Ca Diếp
hỏi lại:
- Ngươi muốn
cúng dường bao nhiêu vị Tỳ kheo?
- Bạch Thế
Tôn, Tăng chúng của Ngài gồm bao nhiêu?
- Hai mươi
ngàn.
- Bạch Thế
Tôn, ngày mai xin Ngài đem theo tất cả Tỳ kheo ấy.
Đức Phật nhận
lời. Người kia cầm một mảnh bối diệp (xưa dùng lá
cây khô để viết chưa có giấy) trở về làng, rồi đi
từng nhà khuyên sửa soạn cúng dường Phật và chư Tăng
tùy khả năng của mỗi gia đình. Có nhà tình nguyện
cúng dường 500 vị, nhà 200 vị, nhà 100 vị, nhà 50 vị
v. v. . . Người kia đều ghi dấu vào lá bối để hôm
sau thỉnh đúng số Tỳ kheo đến từng nhà. Trong làng,
có một gia đình rất nghèo đến nỗi ông chủ được mệnh
danh là “ông Chúa Nghèo”. Người kia cũng không quên
ghé vào nhà Chúa Nghèo để tạo phước cho ông ta. Khi
Chúa Nghèo nghe người kia muốn mình cúng dường chúng
Tỳ kheo thì giật bắn người lên:
- Ối bạn ơi!
Bạn coi nhà cửa tôi đây, đến một chỗ ngồi cũng không
có, làm sao tôi cúng dường gì được? Tôi có đồng xu
nào đâu? Hãy đến những nhà cao cửa lớn kia!
- Này bạn,
không phải chính vì vậy bạn mới nên nhân cơ hội này
mà gieo giống phước sao? Vì sao bạn phải nghèo? Phải
chăng bạn chưa từng giúp ai một chút gì cả?
Chúa Nghèo
ngẫm có lý bèn ưng thuận:
- Được.
Vậy thì xin bạn ghi cho tôi cúng dường một vị tỳ
kheo.
Người kia
bằng lòng nhưng không ghi vào lá vì y nghĩ rằng một
vị thì ít quá, chẳng cần ghi làm gì. Y từ giã, tiếp
tục đi phổ khuyến.
Chúa Nghèo
gọi vợ ra, cho hay ý định cúng dường một vị Tỳ kheo
của mình, và đề nghị với vợ cùng đi làm mướn để đủ
tiền sắm sửa các thứ. Người vợ bằng lòng ngay và cả
hai cùng đi đến một nhà phú hộ. Nhà này sẳn lòng
mướn hai vợ chồng làm việc một buổi chiều hôm ấy để
chuẩn bị cho việc cúng dường hôm sau. Họ mướn Chúa
Nghèo giã gạo, còn bà vợ thì gánh nước. Hai vợ chồng
làm việc rất hăng hái, nét hân hoan lộ hẳn trên
gương mặt, đến nỗi chủ nhà hỏi nguyên do. Khi được
biết họ làm mướn để có tiền mua thực phẩm cúng dường
một vị Tỳ kheo, phú ông cảm khái, trả công gấp bội.
Với số tiền nhận được họ mua ít gạo thơm hảo hạng,
trái cây quí và ít đồ vặt vãnh để nấu nướng.
Sáng hôm sau,
Chúa Nghèo dậy sớm đi hái rau bên bờ sông về cho vợ
làm thức ăn. Một người đánh cá hỏi:
- Chúa Nghèo
hái rau làm gì sớm thế?
- Tôi hái rau
để cúng dường một vị Tỳ kheo.
- Thế à! Vị
nào ăn rau của Chúa Nghèo cúng dường chắc là hên lắm
đó.
- Thôi tôi đi
đây, sắp tới giờ cúng dường rồi.
Chúa Nghèo
sung sướng đem rau về cho vợ. Khi ấy, từ trong tịnh
xá của Ngài, Phật Ca Diếp đã biết được một người
nghèo đang thành tâm sửa soạn cúng dường một vị Tỳ
kheo. Ngài cũng biết được rằng tất cả chúng Tỳ kheo
đã được sắp đặt vào từng nhà, mỗi nhà sẽ cúng dường
một số Tỳ kheo. Duy chỉ có nhà Chúa Nghèo chỉ cúng
có một vị, người phổ khuyến quên ghi vào lá, do đó
mà y đã không chừa một người nào cho Chúa Nghèo.
“Vậy chỉ còn ta để cho Chúa Nghèo gieo ruộng phước”,
Phật nghĩ thế, và Ngài lấy làm hoan hỷ, vì Phật vốn
thương những kẻ nghèo cùng. Vừa khi Ngài có ý định
như vậy, thì vua trời Đế Thích cảm thấy chiếc ngai
vàng đang ngồi rung mạnh, “Có chuyện gì thế?” Vua
trời ngẫm nghĩ, và biết chính tấm lòng thành khẩn
của Chúa Nghèo ở dưới thế đã làm chấn động đến chư
thiên. “Ta phải giúp Chúa Nghèo một tay để sửa soạn
món ăn cúng dường Phật”. Đế Thích cùng với vợ rời
thiên cung bay xuống, hóa làm hai vợ chồng nghèo
đang đi tìm việc làm. Đến gần nhà Chúa Nghèo, Đế
Thích hỏi:
- Nhà có việc
gì làm không? Cho chúng tôi làm với.
- Ông lão ơi!
Chúng tôi có nhiều việc làm lắm, nhưng thú thật là
chúng tôi không có tiền để trả công ông lão.
- Bạn làm gì
thế?
- Chúng tôi
làm thức ăn cúng dường vị Tỳ kheo.
- Ồ, việc
phước ấy thì tôi cũng muốn hùn. Tôi không cần trả
công đâu.
- Tốt lắm.
Vậy lão hãy giúp chúng tôi.
- Xin vâng.
Rồi hai vợ
chồng Đế Thích bước vào nhà, Đế Thích bảo:
- Bây giờ, để
chúng tôi làm thức ăn cho. Bạn hãy đi thỉnh vị Tỳ
kheo của bạn đi.
Chúa Nghèo đi
đến vị phổ khuyến hôm qua. Y bảo:
- Ồ bạn! Tôi
quên bẵng. Không còn vị Tỳ kheo nào cho bạn thỉnh vì
tất cả đều nhận lời các nhà khác rồi.
Không thể nào
tả nỗi tuyệt vọng lớn lao của Chúa Nghèo lúc ấy.
Chúa Nghèo đấm ngực, lăn ra mà khóc.
-Trời đất ơi!
Bạn hại tôi rồi! Suốt hai hôm nay, chúng tôi làm
việc tối mắt tắt đèn để chờ đợi bữa trưa nay cúng
dường một vị Tỳ kheo! Vậy mà bây giờ bạn bảo không
còn vị nào! Bạn phải cho tôi một vị Tỳ kheo! Không
thì tôi chết mất. Hu hu.
Quần chúng bu
lại xem đông. Người kia bối rối năn nỉ:
- Này Chúa
Nghèo, xin Chúa Nghèo đừng làm tội tôi nữa. Tôi lỡ
đi mà. Chúa Nghèo tha cho tôi đi.
- Không biết!
Phải cho tôi một vị Tỳ kheo! Hu hu, hu hu.
Túng quá,
người kia đánh bạo đề nghị:
- Thôi chúa
Nghèo hãy đứng dậy, tôi bày cho một cách này. Đấng
Đạo sư chưa nhận lời của ai, vì rất đông vua chúa
đại thần đều muốn thỉnh Ngài. Vậy bạn hãy đến thỉnh
Ngài đi. Ngài rất thương những người nghèo chắc Ngày
sẽ nhận lời bạn đấy. Ngài đang ngồi trong tịnh xá
nói pháp cho các bậc thượng khách nghe.
Chúa nghèo
nghe lời, đứng lên đi đến tịnh xá. Vua và đình thần
đang nghe pháp, thấy Chúa Nghèo tiến tới thì ngăn
lại (vì họ tưởng Chúa Nghèo đến xin đồ ăn thừa):
- Chúa Nghèo!
chưa đến giờ ăn đâu.
- Tôi biết.
Tôi đi thỉnh Phật về nhà tôi thọ trai.
Đức Phật mỉm
cười, chìa cái bình bát của Ngài ra, trao cho Chúa
Nghèo một cách thân mật. Chúa Nghèo ôm lấy bình bát
của Phật vào lòng, mặt mày hớn hở như đứa bé vừa
được kẹo. Các ông Hoàng và đại thần chạy theo đề
nghị:
- Chúa Nghèo,
hãy nhường cái bát ấy cho ta cúng thức ăn cho Phật.
Ta sẽ cho Chúa nghèo 1000 đồng.
- Không bao
giờ tôi nhường cái bát này cho ai dù có đổi bạc
triệu.
Chúa Nghèo
trân trọng ôm bình bát của Phật về nhà để bày thức
ăn. Vua đang ngồi gần Phật ngẫm nghĩ: “Lão Chúa
Nghèo chắc chẳng có gì ngon lành mà cúng dường Đức
Thế Tôn đâu. Chi bằng ta sắm sẵn các thức ăn thượng
vị đựng trong một cái bát khác, chờ khi Chúa Nghèo
dâng lên Phật ta sẽ đổi thức ăn của ta cho Phật dùng.
Đến giờ thọ
thực, Phật Ca Diếp đến nhà chúa Nghèo. Vua đi theo ý
định như trên. Nhưng khi Phật vào nhà Chúa Nghèo, Đế
Thích đã hóa trang để dâng Phật một bát đầy thức ăn
mùi thơm bay khắp không gian. Vua đành thất vọng bẻn
lẻn cáo từ Phật trở về.
Do phước báo
cúng dường Phật Ca Diếp, Chúa Nghèo được sanh lên
cõi Trời cho đến khi Phật Thích Ca ra đời mới trở
xuống trần thế, sanh vào nhà một thí chủ thân tín
của Ngài Xá Lợi Phất. Khi mang thai Chúa Nghèo người
mẹ bổng thông minh khác thường, những người trong
gia đình ai có bệnh tật gì đều được khỏi và trở nên
thông tuệ. Do đó hài nhi được Tôn Giả Xá Lợi Phất
đặt tên là Hiền Trí. Khi lên 7, Hiền Trí xin mẹ xuất
gia làm đệ tử Tôn giả.
Tôn giả dạy
cho chú tiểu những uy nghi phép tắc phải theo trước
khi đưa chú vào thành khất thực. Lần đầu tiên ôm bát
theo hầu thầy ra đường, chú hỏi Ngài khi thấy một
con đê:
- Bạch Tôn
giả, cái kia là cái gì?
- Chú tiểu,
đấy là một con đê.
- Bạch Tôn
giả, con đê dùng để làm gì?
- Để dẫn nước
đi khắp nơi nào người ta muốn.
- Nhưng bạch
Tôn giả, nước có hiểu biết gì không?
- Không đâu,
chú tiểu. Nước là vật vô tri giác.
- Bạch Tôn
giả, thế thì người ta có thể hướng dẫn một vật vô
tri giác đến bất cứ chỗ nào người ta muốn hay sao?
- Chính vậy,
chú tiểu
- Hiền Trí
nghĩ: “Nếu người ta có thể hướng dẫn một vật vô
tri tùy theo ý muốn thì tại sao ta lại không thể
nhiếp phục tâm ý mình để chứng A La Hán quả?”
Đi thêm một
quãng, chú thấy những người làm tên đang hơ những
cây tên trên lửa và nheo mắt nhắm để uốn chúng cho
thẳng. Chú tiểu hỏi:
- Bạch Tôn
giả họ làm chi vậy?
- Họ đang uốn
những cây tên cho thật thẳng.
- Cây tên có
lý trí không?
- Không nó là
vật vô tri.
Chú tiểu nghĩ:
“Nếu người ta có thể uốn nắn một vật vô tri cho
thẳng theo ý muốn, thì ta cũng có thể nỗ lực điều
phục tâm ý để chứng quả A La Hán”
Một lát sau,
hai thầy trò gặp những người thợ mộc đang đẽo bánh
xe, chú lại hỏi:
- Bạch Tôn
giả, họ làm gì thế?
- Đây là thợ
mộc đang đẽo bánh xe.
- Bánh xe có
lý trí không?
- Không, bánh
xe chỉ chạy theo ý người muốn.
Khi ấy chú
tiểu trao y bát cho thầy và bạch:
- Bạch Tôn
giả, con muốn trở về tịnh xá.
Tôn giả Xá
Lợi Phất không nói một lời đỡ lấy y bát trên tay chú
tiểu. Chú tiểu vái chào thầy xong còn quay đầu lại
dặn Tôn giả:
- Bạch Tôn
giả, khi nào Ngài ăn xong xin đem thức ăn về cho
con.
Tôn giả Xá
Lợi Phất nhận lời và vốn cẩn thận, Ngài sợ chú tiểu
ngủ ngoài trời có thể bị rắn cắn, hay sâu bọ đốt,
bởi thế Ngài trao chìa khóa cho chú tiểu và bảo:
- Hãy
mở cửa tịnh thất của ta mà vào.
Chú tiểu vâng
lời. Vào phòng Tôn giả, chú bắt đầu tỉnh tọa thiền
quán. Khi ấy Đế Thích ở trên trời cảm thấy chiếc
ngai vàng rung động, và nhận ra rằng chú tiểu Hiền
Trí đang ngồi thiền quyết chứng quả A La Hán trong
ngày đó, nên Ngài muốn giúp chú một tay. Ngài bảo
thần mặt trời phải đi chậm lại, kéo dài buổi sáng ra
trọn ngày, và sắc cho Tứ Thiên vương đứng gác bốn
góc chùa, đuổi hết chim chóc ra khỏi vườn đừng gây
tiếng động. Do đó, Kỳ Viên tịnh xá trở nên yên tĩnh
lạ thường. Thỉnh thoảng mới có một âm thanh rất nhỏ
gây nên bởi một chiếc lá vàng lìa cành rơi xuống.
Trong khi ấy,
Tôn giả Xá Lợi Phất vào nhà người thí chủ quen biết
để khất thực. Gia chủ vừa mới mua thực phẩm về nấu
nướng cũng vừa xong, ông đem đặt vào bát Ngài. Tôn
giả định đem về cho chú tiểu như lời chú tiểu dặn
nhưng gia chủ xin thỉnh Tôn Giả cứ dùng, sẽ còn phần
khác để Tôn giả đem về. Tôn giả ngồi lại thọ thực.
Đúng lúc ấy,
từ tư thất của Ngài, đức Phật Thích-Ca quan sát bằng
Phật nhãn thanh tịnh thấy chú tiểu có thể chứng quả
A La Hán trong vài giờ nữa, nhưng nếu Tôn giả Xá Lợi
Phất mà về lúc này, đem thức ăn vào phòng cho chú
tiểu thì lỡ mất dịp đắc quả của chú. Do đó Đức Phật
quyết định đi đến tịnh thất của Tôn giả để đón đường.
Vừa khi Tôn giả trở về, Ngài gặp ngay đức Đạo Sư
đứng trước cửa. Tôn giả thi lễ, đức Đạo Sư hỏi vị
thông tuệ của Ngài về một số câu hỏi trong luận tạng,
chỉ cốt kéo dài thời gian cho chú tiểu có thể đắc
quả. Khi biết Hiền Trí đã chứng quả, Ngài bảo Tôn
giả Xá Lợi Phất:
- Bây giờ,
này Xá Lợi Phất, hãy đem thức ăn vào cho chú tiểu
Hiền Trí đi.
Tôn giả khỏ
cửa. Chú tiểu bước ra đỡ lấy bát trên tay Ngài đặt
xuống một nơi, rồi bắt đầu quạt cho Ngài. Tôn giả
bảo:
- Này chú hãy
ăn sáng đi.
- Bạch Tôn
giả, còn Tôn giả thì sao?
- Ta đã ăn
rồi.
Khi chú tiểu
mới ngồi xuống quán tưởng năm điều rồi thọ thực. Khi
chú đã ăn xong, rửa bát và dọn dẹp xong, thì mọi sự
mới trở lại bình thường: Mặt trời bắt đầu lặn, trăng
từ từ lên, Tứ thiên vương hết canh gác bốn góc chùa.
Đế Thích trở về thiên cung ngồi vào chiếc ngai vàng
thường lệ. Chúng Tỳ kheo bảo nhau:
- Thật kỳ lạ! Hôm nay buổi
sáng hầu như dài suốt cả ngày, mà buổi chiều lại
ngắn có một khoảnh khắc. Tại sao thế nhỉ?
Đức Đạo Sư
giải thích:
- Đúng thế,
này các Tỳ kheo, chính vì chú tiểu 7 tuổi kia phát
tâm chứng quả A La Hán, mà tất cả trời Đế Thích, Tứ
Thiên Vương, thần mặt trời, thần mặt trăng đều hỗ
trợ cho công việc của chú ấy và để canh chừng, chính
Như Lai cũng đã phải bỏ cả thì giờ nghỉ ngơi cho chú
bé, một người nhân quán sát con đê dẫn nước, thợ
làm tên, người làm bánh xe, mà quyết tâm nỗ lực
thiền định để chứng quả vị bất lai.
“Người đào đê
dẫn nước. Người làm tên uốn tên
Thợ mộc đẽo
gỗ, còn người trí thì lo điều phục tâm mình”
(Pháp cú 80)
Sưu tầm